Hoa HM

Blogger news

SẢN PHẨM MỚI

Our Location

THỜI TRANG

Hỗ trợ

PHỤ KIỆN - THIẾT BỊ SỐ

   Hotline: 0933 919 722

Sản phẩm: HHM01-001

Có bán tại: Hồ Chí Minh

Chi tiết thiết kế: 4 hoa hướng dương, 8 hoa hồng nhung.

Mỗi ngày, shop hoa chúng tôi nhập khẩu về nhiều loại hoa tươi khác nhau. Tùy theo mùa hoa mà loại hoa có thể thay đổi, Quý khách có thể chọn (loại) màu hoa khác có giá trị tương đương.
Để được tư vấn về màu hoa hiện có tại shop, Quý khách vui lòng liên hệ Hotline 0933 919 722



Notes:
     + Chúng tôi luôn đảm bảo 100% các hoa luôn tươi và mới.
     + Quý khách có thể yêu cầu mix theo những màu gì mình muốn và chúng tôi sẽ tư vấn theo yêu cầu của Quý khách. Xin vui lòng liên hệ Hotline 0933 919 722
-      Do các thiết kế của Hoa HM sử dụng nhiều hoa nhập khẩu khác nhau theo mùa, Quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi trước khi đặt hàng Online để được tư vấn:
     + Hotline0933 919 722
     + Sale Thiện: 0938 666 581
Hình ảnh thiết kế hoa chỉ mang tính chất tham khảo. Tùy vào mùa hoa mà một số loại hoa trong thiết kế sẽ không có hoặc chất lượng không đảm bảo để thực hiện đơn hàng. Chúng tôi sẽ dùng các loại hoa khác thay thế. Hình dáng và màu sắc của hoa thay thế sẽ làm thay đổi thiết kế hoa. Quý khách vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số hotline để được tư vấn kĩ hơn về các loại hoa hiện có trong mùa. 

Cửa hàng chúng tôi nhận cắm hoa các sự kiện như hội nghị, tiệc cưới... theo yêu cầu của khách hàng. Sau đây là một vài sản phẩm của chúng tôi.









Bắt nguồn từ Phalaina (nghĩa là “bướm đêm”) và opsis (nghĩa là “hình dáng”) trong tiềng Hy Lạp.
Cuộc sống của phalaenopsis bắt đầu với danh tính Epidendrum amabilis, thông qua tập mẫu cây được gởi tới cho nhà thực vật học linnaeus năm 1753, nhưng sau đó đuợc chính thức hóa bởi nhà thực vật Blume người Hà Lan, người nhìn thấy mẫu cây ra hoa và nghĩ nó giống như loài bướm đêm; vì thế đặt tên cho nó là Phalaenopsis amabilis( Hoa màu trắng, là bố mẹ của những cây lai có màu hoa trắng to, đẹp ngày nay.
MÔI TRƯỜNG SỐNG
Phalaenopsis đích thực là lan nhiệt đới thích sống trên cây (biểu sinh) hoặc trên đá, chỉ xuất hiện ở châu Á (Indonesia, Malaysia, Myanmar, Việt Nam và Đài Loan). Ít nhất có 15 chủng loại và mẫu lai tự nhiên hiện diện tại Philipin, nơi những cư dân sống trên cây này, khi trổ hoa, treo mình hệt như chú bướm đêm đậu trên cây nhiệt đới. Một số mọc gần bờ biển, số khác tại vùng có độ cao 400m so với mặt biển, nhưng nói chung luôn là nơi ẩm ướt và có 25 – 260C (77 – 790F) luc trời về đêm, với lượng mưa ổn định mỗi ngày trong suốt mùa mưa đạt đến 240cm mỗi năm, tạo độ ẩm cao.
ĐẶC ĐIỂM NHẬN DẠNG
Hoa lan Phalaenopsis có vẻ đẹp rất lộng lẫy, khiêu gợi, hấp dẫn không cưỡng lại được, và một số mẫu như P. schilleriana xuất xứ từ quần đảo Philipines có thể có đến 70 hoa trên mỗi cuống. Trong môi trường sống tự nhiên, chúng liên tục nở hoa, mỗi kỳ nở hoa như vậy kéo dài hàng tháng trời, và thường ra hoa hai lân trên một phát hoa.
Tán lá rất đặc biệt, với hình dạng giống như quả trứng khổng lồ, dày bản, dài đến 25cm, rộng 10cm, và có sọc vằn ánh bạc, chẳng hạn P. stuartiana. Loài lan này không có giả hành, vì thế lá dày bản của nó đóng vai tró rất quan trọng trong việc trữ chất dinh dưỡng (chủ yếu là từ thực vật mục) và nước cho cây. Hằng năm, một hay hai lá già sẽ rụng, thường chỉ sau khi kết thúc mùa hoa nở, nhưng luôn được thay bằng lá mới.
Một đặc điểm dáng chú ý nữa của lan Phalaenopsis là kha năng mọc rễ của nó, thường dài đến 1m, không những dùng để hút nước và thức ăn mà còn bám chặt vào cây chủ tìm chỗ tựa.
CÁC LOẠI LAN PHALAENOPSIS
Phalaenopsis có hai loại phân biệt. Ở loại 1, phát hoa rất dài – 60cm trở lên – và nở từ 15 bông hoặc hơn. Lá hình elip thon dài và dày. Cánh hoa rộng hơn nhiều so với đài hoa, còn cánh môi tạo thành thùy lá xoắn cong ở giữa, và có cả phần tua cuốn phụ.
Những loài thuộc nhóm này bao gồm P. parishii, P. aphrodite, P. stuariana, P. schilleriana, P. sanderiana (mẫu lai tự nhiên giữa P. Aphrodite hoa trắng với P. schilleriana hoa màu cà).
Loại 2 có phát hoa ngắn hơn và cách ra hoa khác hẳn so với loại 1. Mỗi phat hoa trổ rất ít bông và tiếp tục ra hoa mới sau vài tháng. Đóa hoa nhỏ hơn, cánh hoa và đài hoa hầu như có kích cỡ bằng nhau, cánh môi không có tua cánh phụ.
TÌNH TRẠNG LAI GHÉP
Người ta không chỉ ghép Phalaenopsis với Phalaenopsis để tạo ra hang trăm biến thể mới, mà còn ghép nó với những giống lan khác,tạo nên các mẫu lan khác loài hay lai hai giống nổi tiếng, như Asconopsis (phalaenopsis x Ascocentrum) Doritaenopsis (phalaenopsis x doritis), Renanthopsis (phalaenopsis x Renanthera), Sarconopsis (phalaenopsis x sarchochilus), vandaenopsis (phalaenopsis x vanda), và còn nhiều nữa.
ĐIỀU KIỆN TRỒNG
Vào thời kỷ đầu khi người đam mê cây cảnh bắt tay vào trồng lan Phalaenopsis, dường như họ chỉ trồng trong nhà kính riêng, nhưng phương pháp này được cải tiến dần, về sau nhiều giống lai và cây hoàn thiện được trồng thành công trong nhà, thậm chí có thể treo ở bất kỳ phòng nào. Nếu bạn quan tâm, hãy chuẩn bị sẵn điều kiện ấm áp, có bóng râm, thêm một chút ẩm ướt bằng cách đặt chậu cây vào cái khay chứa sỏi ướt hoặc tưới phun sương bằng vòi phun tia mịn. Một nhà kính đầy cây là nơi lý tưởng nhất, miễn sao đủ bóng râm cho lan là được.
Như hầu hết giống lan khác, Phalaenopsis bắt đầu sinh trưởng vào mùa xuân. Tại thời điểm này, nên giữ nhiệt độ khoảng gần 200C (68 (680F) vào ban ngày và không dưới 180C (640F) vào ban đêm. Mùa hè có thể nóng hơn (nhưng không để cây tiếp xúc trực tiếp với nắng mặt trời). Sang thu, nhiệt độ mát hơn, khoảng 160C (60o0F) là thích hợp để kích thích cây ra hoa.
Cây lai được chăm sóc với điều kiện tối ưu sẽ trổ hoa quanh năm, trong khi loài thuần chủng chỉ trổ hoa vào màa xuân hoặc mùa thu.
Vì vậy, mặc dù hoa Phalaenopsis trong mỏng manh, nhưng thật ra không khó chăm sóc, đồng thời do nguồn nước của chúng, Phalaenopsis là một trong số những loại lan trồng trong nhà lý tưởng nhất hiện có.
GIÁ THỂ TRỒNG PHALAENOPSIS
Một lần nữa, giá thể tốt, xốp, thấm nước và không khí là lý tưởng nhất. Hãy nghĩ đến đời sống bám vào thân cây trong tự nhiên của nó mà xem: hầu như chẳng có gì che chắn hệ thống rễ của nó ngoài thực vật bị phân hủy, vì thế loài lan này không thích bị “nhồi nhét” vào cái chậu ngột ngạt chút nào.
Dùng hỗn hợp vỏ thông chọn lọc, một số rễ con vi thực vật các mẫu than củi và rêu nước. Giữ cho giá thể ẩm ướt cho đến khi cây con bén rễ.
Một khi bạn đã thành công trong việc trồng lan Phalanopsis và biết rõ nhu cầu của chúng, hãy thử trồng nó trên khúc gỗ hoặc rễ cây dương xỉ, rồi buộc cây vào khúc gỗ theo cùng cách với lan Dendrobium, làm như vậy, nhìn cây lan sẻ rất tự nhiên với những chiếc rể khỏe mạnh…
TƯỚI NƯỚC VÀ BÓN PHÂN CHO PHALAENOPSIS
a)Tưới nước
Cần phải giữ ẩm cho cây quanh năm. Mặc dù giữa hai lần tưới, cây có thể bị khô đi đôi chút. Nhưng không được để cây khô sạch nước hay ướt sũng. Thông thường, cây càng nhỏ đòi hỏi tưới nước càng thường xuyên hơn cây lớn, mặc dù điều này còn tùy thuộc vào giá thể: cây lớn có thể cần tưới nước hai lần mốt tuần vào mùa hè, trong khi cây nhỏ cần tưới 4 – 5 lần trong tuần và một lần một tuần vào mùa đông.
Phun nước lên lá bằng vòi phun tia mịn, song đừng để nước đọng ở giữa: đừng bao giờ để nước đọng trên đọt cây, bởi điều đó khiến nó thối rữa rất nhanh và gây hại cho cây. Trong tự nhiên, những cây này treo ngược xuống nhờ đó tránh nước mưa đọng lại trên lá non. Do vây nếu kỹ lưỡng, bạn đóng một cái máng nghiêng rồi đặt chậu lan nằm gát lên mép cao của máng
b) Bón phân
Như đã đề cập trước, phalaenopsis không có giả hành trữ thức ăn; do đó, chúng đòi hỏi kế hoạch chă bón rạch ròi. Phân bón lan 30:10:10 có hàm lượng nitơ cao nên dùng hai tuần một lần trong suốt mùa hè hay khi thời tiết ấm áp, và khỏang một tháng một lần lúc trời mát mẻ. Nên pha loãng dung dịch phân bón rồi tưới vào rễ và lá bằng vòi phun tia mịn. Đến mùa ra hoa hoặc muốn kích thích ra hoa dùng phân có nhiều Lân, Kali như 10:60:10 ; 3:4:50 : 10:30:30…
THAY CHẬU CHO PHALAENOPSIS
Nhìn chung, chỉ nên thay chậu lan Phalaenopsis khi giá thể hòan tòan hết chất dinh dưỡng, không rút nước tốt, hay rễ cây có vấn đề. Tiến hành thay chậu trong mùa tăng trưởng của cây, song nếu các vấn đề trên xảy ra trước thời điểm đó, hãy thay chậu ngay, bất kể mùa nào.
Cây thích sống trong chậu nhỏ hơn kích thước của chúng, nhưng nên cẩn thận với những cái rễ lan đã ăn vào chậu. Đừng làm đứt chúng. Hãy tháo gỡ nhẹ nhàng, lưu ý kẻo làm mất đầu phát triển màu xanh sáng của rễ. Nên đập bể chậu hơn là làm đứt rễ.
Sau khi lấy cây ra khỏi chậu, bỏ đất trồng cũ, tỉa bớt rễ chết màu nâu trước khi đặt sang chậu mới (bằng nhựa màu trắng trong tốt hơn bằng đất nung vốn bị khô rất nhanh và phải tưới nhiều) với giá thể mới và một ít nuớc.
NHÂN GIỐNG PHALAENOPSIS
Loài Phalaenopsis rất tiện tạo cây non từ đốt của phát hoa, đặc biệt khi độ ẩm cao. Tuy nhiên, các cây lai không dễ để các cây non như vậy. Có thể tách lấy những cây non này một khi chúng đã mọc nhiều rễ, sau đó trồng vào chậu theo cách thông thường. Vì lý do đó, điều quan trọng là không cắt bỏ phát hoa sau khi bông cuối cùng rụng xuống; hãy quan sát xem:1- nó có ra phát hoa mới hay không, và 2- nó có đẻ cây non hay không.
Phương pháp nhân giống chủ yếu hiện nay là bằng cách nuôi cấy mô tế bào, và phương pháp lai tạo gieo hạt trong ống nghiệm.
SÂU BỆNH Ở PHALAENOPSIS
a)      Sâu
Phalaenopsis thường bị loài nhện đỏ giả (Brevipalpus russulus) tấn công, làm mặt trên của lá bị răng cưa hoặc bị lỗ rỗ. Rất khó phát hiện chúng bằng mắt thường nhưng chúng có màu hơi đỏ tương tự loài nhện đỏ (Tetranychus urticae), vốn chẳng ưa lan Phalaenopsis bằng những giống lan khác. Nếu không muốn đối phó với loài côn trùng gây hại này, nên phun thuốc trừ sâu trên lá theo chỉ dẫn đều đặn mỗi tháng, cho dù điều kiện ẩm ướt cũng giúp ngừa nó.
Đối với lan trồng trong nhà kính, nên cảnh giác ốc sên và sên. Giữ lan trong giỏ treo trên cao hoặc trên tấm gỗ có thể ngăn ngừa được chúng. Để cây quá khô cũng khiến chúng bị tấn công bởi loài bọ vảy và rệp vừng, vì thế phải đảm bảo thường xuyên tưới nuớc và kiểm tra mặt dưới của lá.
b)     Bệnh
Nhiều nuớc hay thiếu không khí đều là nguyên nhân gây bệnh nấm trên lá. Những vết thối rữa màu đen lay lan rất nhanh khi độ ẩm quá cao kết hợp với khí hậu mát mẻ. Bắt đầu bằng một vết màu tim/vàng trên lá, sao đó lan nhanh nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn. Bệnh botrytis gây tàn rụi cánh hoa, thường xuất hiện những khi thời tiết mát mẻ ẩm ướt nhưng không thoáng khí, chúng sẽ tấn công vào những bông hoa nở sớm.


Khi chiết cành ta nên lựa chọn những cành khỏe mạnh, đang phát triển tốt. Kỹ thuật chiết cành rất đơn giản, đầu tiên ta cắt ngang vùng cần chiết, sau đó giăm xuống đất, lưu ý là đất trồng phải thông thoáng, để nơi bóng râm, tưới nước mỗi ngày lên thân cây. Sau khoảng 1 đến 2 tháng cây sẽ đâm mầm mớ. Cần chú ý chăm sóc kỹ phần chiết vì cành rất yếu nếu không để ý cành sẽ chết và thành que cũi khô.


#1. Phân bón lá là gì? Phân bón lá là các hợp chất dinh dưỡng hòa tan trong nước được phun lên lá để cây hấp thụ. Đặc biệt, thành phần phân bón lá còn chứa các yếu tố vi lượng để kích thích cho cây trồng ra lá, ra hoa nhanh hơn. Vì vậy, phân bón lá không thể thay thế hoàn toàn cho phân bón đất truyền thống. #2. Phân bón lá có những loại nào? Phân bón lá có thể là các loại phân đơn như: N, P, K, Cu, Zn v,v… Phân bón lá hỗn hợp gồm các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng ở dạng hoà tan trong nước. Một số phân bón lá còn bổ sung thêm các chất kích thích sinh trưởng cây, các phitehoocmôn, các enzim vào để tăng năng suất sử dụng. #3. Tại sao cần dùng phân bón lá cho cây trồng? Hiệu suất cây sử dụng chất dinh dưỡng qua lá đạt tới 95%. Trong khi đó bón qua đất, cây chỉ sử dụng được 45-50% chất dinh dưỡng Phân bón lá không chỉ cung cấp các thành phần là các nguyên tố đa lượng như đạm, lân, kali mà còn bổ sung các nguyên tố trung lượng và vi lượng như Fe, Zn, Cu, Mg,… Khi dùng phân bón lá sẽ giúp bổ sung các chất này trực tiếp qua lá, giúp đáp ứng đủ nhu cầu và cân đối dinh dưỡng cho cây ,tạo điều kiện cho cây phát triển đầy đủ trong từng giai đoạn sinh trưởng. Trong những trường hợp khẩn cấp cần bổ sung các chất dinh dưỡng đạm, lân, kali hay các nguyên tố trung, vi lượng thì nên sử dụng phân bón lá để mang lại hiệu quả nhanh chóng. Phân bón lá còn có tác dụng giúp tăng cường điều hòa sinh trưởng, tăng khả năng hấp thụ dưỡng cho câu trồng Trong thành phần phân bón lá còn chứa chất kích thích đâm chồi, đẻ nhánh, ra hoa, đậu trái, giảm hiện tượng rụng trái non, trái to đẹp, phẩm chất ngon và tăng cường khả năng đề kháng chống chịu sâu bệnh. #4. Phân bón lá cung cấp những chất dinh dưỡng nào cho cây trồng Đa lượng: Đạm (N), Lân (P), Kali (K). Trung lượng: Canxi (Ca), Lưu Huỳnh (S), Ma-nhê (Mg)… Vi Lượng: Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Mangan (Mn), Bo (B), Đồng (Cu), Molypden (Mo), Clo (Cl) #5. Lưu ý khi dùng phân bón lá Dùng phân bón lá để bón bổ sung hoặc bón thúc nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng Hòa loãng phân theo đúng tỷ lệ trên bao bì nhiệt độ quá cao, đất bị khô hạn nặng không nên dùng phân bón lá vì dễ làm rụng lá Không phun khi trời mưa, nắng to do bay hơi, tỷ lệ lỗ khí khổng đóng cao Không sử dụng phân bón lá lúc cây đang ra hoa, lúc trời nắng vì sẽ làm rụng hoa trái và làm giảm hiệu lực phân. Không phun khi trời mưa, nắng to do bay hơi, tỷ lệ lỗ khí khổng đóng cao. Không phun sau mưa do cây đã no nước. Nếu bơm máy tránh ga mạnh gây ảnh hưởng cơ học lên cây.· Có thể pha chế phẩm với thuốc trừ sâu bệnh để tiết kiệm công phun khi phát hiện cây có sâu bệnh (chỉ pha lẫn vào nhau ở nồng độ loãng).· Trường hợp cây phát triển kém có thể phun chế phẩm nhiều lần, mỗi lần cách nhau 10-15 ngày.


A. Phân Hữu Cơ và các loại phân bón hữu cơ Là phân chứa những chất dinh dưỡng ở dạng những hợp chất hữu cơ như: phân chuồng, phân xanh, phân than bùn, phụ phế phẩm nông nghiệp, phân rác… Dưới đây là thông tin chi tiết của các loại phân hữu cơ này. I. Phân Chuồng 1. Đặc diểm: Phân chuồng là hỗn hợp chủ yếu của: phân, nước tiểu gia súc và chất độn. Nó không những cung cấp thức ăn cho cây trồng mà còn bổ sung chất hữu cơ cho đất giúp cho đất được tơi xốp, tăng độ phì nhiêu, tăng hiệu quả sử dụng phân hóa học… 2. Chế biến phân chuồng: Có 3 phương pháp: 2.1. Ủ nóng (ủ xốp): Lấy phân ra khỏi chuồng, chất thành lớp, không được nén, tưới nước, giữ ẩm 60-70%, có thể trộn thêm 1% vôi bột và 1-2% Super Lân, sau đó trét bùn che phủ cho kín hàng ngày tưới nước, thời gian ủ ngắn 30-40 ngày, ủ xong là sử dụng được. 2.2. Ủ nguội (ủ chặt): Lấy phân ra khỏi chuồng xếp thành lớp, mỗi lớp rắc khoảng (2%) lân, nén chặt. Đống phân ủ rộng khoảng 2-3m, cao 1, 5-2m, trét bùn bên ngoài tránh mưa. Thời gian ủ lâu, 5-6 tháng mới xong. 2. 3. Ủ nóng trước nguội sau: Ủ nóng 5-6 ngày, khi nhiệt độ 50-60°C nén chặt ủ tiếp lớp khác lên trên, trét bùn kín, có thể cho thêm vào đống phân ủ các loại phân khác như: phân thỏ, gà, vịt làm phân men để tăng chất lượng phân. II. Phân Rác 1. Đặc điểm: Là phân hữu cơ được chế biến từ: cỏ dại, rác, thân lá cây xanh, rơm rạ…ủ với một số phân men như phân chuồng, lân, vôi… đến khi mục thành phân (thành phần dinh dưỡng thấp hơn phân chuồng). 2. Cách ủ: Nguyên liệu chính là phân rác 70%, cung cấp thêm đạm và Kali 2%, còn lại phân men (phân chuồng, lân, vôi). Nguyên liệu được chặt ra thành đoạn ngắn 20-30cm xếp thành lớp cứ 30cm rắc một lớp vôi; trét bùn; ủ khoảng 20 ngày đảo lại rắc thêm phân men, xếp đủ cao trét bùn lại, để hở lỗ tưới nước thường xuyên; ủ khoảng 60 ngày dùng bón lót, để lâu hơn khi phân hoai có thể dùng để bón thúc. III. Phân Xanh 1. Đặc diểm: Phân xanh là phân hữu cơ sử dụng các loại cây lá tươi bón ngay vào đất không qua quá trình ủ do đó chỉ dùng để bón lót. Cây phân xanh thường được dùng là cây họ đậu: điền thanh, muồng, keo dậu, cỏ Stylo, điên điển… 2. Cách sử dụng: Vùi cây phân xanh vào đất khi cây ra hoa, bón lót lúc làm đất. IV. Phân Vi Sinh. 1. Đặc điểm: Là chế phẩm phân bón được sản xuất bằng cách dùng các loại vi sinh vật hữu ích cấy vào môi trường là chất hữu cơ (như bột than bùn). Khi bón cho đất các chủng loại vi sinh vật sẽ phát huy vai trò của nó như phân giải chất dinh dưỡng khó tiêu thành dễ tiêu cho cây hấp thụ, hoặc hút đạm khí trời để bổ sung cho đất và cây. 2. Các loại phân trên thị trường: 2.1. Phân vi sinh cố định đạm: – Phân vi sinh cố định đạm, sống cộng sinh với cây họ đậu: Nitragin, Rhidafo… – Phân vi sinh cố định đạm, sống tự do: Azotobacterin… 2.2. Phân vi sinh phân giải lân: Phân lân hữu cơ vi sinh Komix và nhiều loại phân vi sinh phân giải lân khác có tính năng tác dụng giống như nhau. 2.3. Phân vi sinh phân giải chất xơ: chứa các chủng vi sinh vật giúp tăng cường phân giải xác thực vật như Bimix. 3. Cách sử dụng phân hữu cơ vi sinh: Thời gian sử dụng phân có hạn, tùy loại thường từ 1-6 tháng (chú ý xem thời hạn sử dụng). Phân vi sinh phát huy hiệu lực ở: vùng đất mới, đất phèn, những vùng đất bị thoái hóa mất kết cấu do bón phân hóa học lâu ngày, vùng chưa trồng các cây có vi khuẩn cộng sinh… thì mới có hiệu quả cao. V . Phân Sinh Học Hữu Cơ. 1. Đặc điểm: Là loại phân có nguồn gốc hữu cơ được sản xuất bằng công nghệ sinh học (như lên men vi sinh) và phối trộn thêm một số hoạt chất khác để làm tăng độ hữu hiệu của phân, hoặc khi bón vào đất sẽ tạo môi trường cho các quá trình sinh học trong đất diễn ra thuận lợi góp phần làm tăng năng suất cây trồng 2. Sử dụng: Phân sinh hóa hữu cơ được sản xuất ở dạng bột hoặc dạng lỏng; có thể phun lên lá hoặc bón gốc. B. Phân Vô Cơ và phân loại phân bón vô cơ Phân vô cơ hay phân hóa học là các loại phân có chứa yếu tố dinh dưỡng dưới dạng muối khoáng (vô cơ) thu được nhờ các quá trình vật lý, hóa học. Các loại phân vô cơ thông dụng hiện nay. I. Phân Đơn: Là loại phân chỉ chứa 1 trong 3 nguyên tố dinh dưỡng chủ yếu là N, P hoặc K 1. Phân đạm: Là tên gọi chung của các loại phân bón vô cơ cung cấp đạm cho cây. * Phân Urê CO(NH4)2: Phân urê có 44 – 48%N nguyên chất. Loại phân này chiếm 59% tổng số các loại phân đạm được sản xuất ở các nước trên thế giới. Urê là loại phân có tỷ lệ N cao nhất. Trên thị trường có bán 2 loại phân urê có chất lượng giống nhau: – Loại tinh thể màu trắng, hạt tròn, dễ tan trong nước, có nhược điểm là hút ẩm mạnh. – Loại có dạng viên, nhỏ như trứng cá. Loại này có thêm chất chống ẩm nên dễ bảo quản, dễ vận chuyển nên được dùng nhiều trong sản xuất nông nghiệp. Phân urê có khả năng thích nghi rộng và có khả năng phát huy tác dụng trên nhiều loại đất khác nhau và đối với các loại cây trồng khác nhau. Phân này bón thích hợp trên đất chua phèn. Phân urê được dùng để bón thúc. Có thể pha loãng theo nồng độ 0.5 – 1.5% để phun lên lá. Trong chăn nuôi, urê được dùng trực tiếp bằng cách cho thêm vào khẩu phần thức ăn cho lợn, trâu bò. Phân này cần được bảo quản kỹ trong túi polyetylen và không được phơi ra nắng. Bởi vì khi tiếp xúc với không khí và ánh nắng urê rất dễ bị phân huỷ và bay hơi. Các túi phân urê khi đã mở ra cần được dùng hết ngay trong thời gian ngắn. Trong quá trình sản xuất, urê thường liên kết các phần tử với nhau tạo thành biurat. Đó là chất độc hại đối với cây trồng. Vì vậy, trong phân urê không được có quá 3% biurat đối với cây trồng cạn, 5% đối với lúa nước. * Phân sunphat đạm (NH4)2SO4: Còn gọi là phân SA. Sunphat đạm có chứa 20 – 21% N nguyên chất. Trong phân này còn có 29% lưu huỳnh (S). Trên thế giới loại phân này chiếm 8% tổng lượng phân hoá học sản xuất hàng năm. Phân này có dạng tinh thể, mịn, màu trắng ngà hoặc xám xanh. Phân này có mùi nước tiểu (mùi amôniac), vị mặn và hơi chua. Cho nên nhiều nơi gọi là phân muối diêm. Sunphat đạm là loại phân bón tốt vì có cả N và lưu huỳnh là hai chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây. Phân này dễ tan trong nước, không vón cục. Thường ở trạng thái tơi rời, dễ bảo quản, dễ sử dụng. Tuy nhiên, nếu để trong môi trường ẩm phân dễ vón cục, đóng lại thành từng tảng rất khó đem bón cho cây. Có thể đem bón cho tất cả các loại cây trồng, trên nhiều loại đất khác nhau, miễn là đất không bị phèn, bị chua. Nếu đất chua cần bón thêm vôi, lân mới dùng được đạm sunphat amôn. Phân này dùng tốt cho cây trồng trên đất đồi, trên các loại đất bạc màu (thiếu S). Đạm sunphat được dùng chuyên để bón cho các loại cây cần nhiều S và ít N như đậu đỗ, lạc v.v… và các loại cây vừa cần nhiều S vừa cần nhiều N như ngô. Cần lưu ý đạm sunphat là loại phân có tác dụng nhanh, rất chóng phát huy tác dụng đối với cây trồng, cho nên thường được dùng để bón thúc và bón thành nhiều lần để tránh mất đạm. Khi bón cho cây con cần chú ý là phân này dễ gây cháy lá. Không nên sử dụng phân đạm sunphat để bón trên đất phèn, vì phân dễ làm chua thêm đất. * Phân Xianamit canxi: Phân này có dạng bột không có tinh thể, màu xám tro hoặc màu trắng, đốt không có mùi khai. Xianamit canxi có chứa 20 – 21% N nguyên chất, 20 – 28% vôi, 9 – 12% than. Vì có than cho nên phân có màu xám đen. Cũng có loại phân tỷ lệ than thấp hoặc không có than nên phân có màu trắng. Cần chú ý chống ẩm cho phân khi bảo quản, bởi vì nếu phân hút ẩm sẽ bị biến chất, hạt phân phình to lên làm rách bao bì và làm hỏng dụng cụ đựng. Phân này dễ bốc bụi. Khi bám vào da sẽ làm hỏng da, phân bay vào mắt sẽ làm hỏng giác mạc mắt, vì vậy khi sử dụng phân này phải rất cẩn thận. Phân này có phản ứng kiềm, bởi vậy có thể khử được chua, dùng rất tốt ở các loại đất chua. Xianamit canxi thường được dùng để bón lót. Muốn dùng để bón thúc phải đem ủ trước khi bón. Bởi vì phân này khi phân giải tạo ra một số chất độc có thể làm hỏng móng chân trâu bò, hại da chân người nông dân. Thường sau 7 – 10 ngày các chất độc mới hết. Thường xianamit canxi được trộn ủ với phân rác làm cho phân chóng hoai mục. Phân này không được dùng để phun lên lá cây. * Những điều cần chú ý khi sử dụng phân đạm: Hiện nay có 3 loại phân đạm thường được dùng phổ biến nhất, đó là: phân urê, phân amôn sunphat và phân amôn phôtphat. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các loại phân hoá học cần chú ý đến những điểm sau đây: – Phân cần được bảo quản trong các túi nilông. Chỗ để phân cần thoáng mát, khô ráo, mái kho không bị dột. Không để chung phân đạm cùng với các loại phân khác. – Cần bón đúng đặc tính và nhu cầu của cây trồng. Cây có những đặc tính rất khác nhau. Nhu cầu của cây đối với N cũng rất khác nhau. Có cây yêu cầu nhiều N, có cây yêu cầu ít. Nếu bón N nhiều, vượt quá yêu cầu của cây, N cũng gây ra những tác hại đáng kể. Bón đúng yêu cầu của cây, N phát huy tác dụng rất tốt. – Cần bón đúng dạng phân theo đặc điểm của cây và của đất đai. Đối với các loại cây họ đậu nên bón đạm sớm, trước khi nốt sần được hình thành trên rễ cây. Khi trên rễ cây đã có các nốt sần, không nên bón đạm, vì đạm ngăn trở hoạt động cố định đạm từ không khí của các loài vi khuẩn nốt sần. – Cần bón đạm đúng với đặc điểm của đất: Phân có tính kiềm nên bón cho đất chua. Phân chua sinh lý nên bón cho đất kiềm. Đất lầy thụt, nhiều bùn không cần bón phân đạm. – Cần bón đạm đúng lúc. Tốt nhất là bón vào thời kỳ sinh trưởng mạnh nhất của cây. – Cần bón đạm đúng liều lượng và cân đối với lân và kali. – Bón phân đạm cần lưu ý đến diễn biến của thời tiết. Không bón lúc mưa to, lúc ruộng vườn đầy nước. – Không bón đạm tập trung vào một lúc, mà cần chia thành nhiều lần để bón và bón vãi đều trên ruộng. Không bón đạm quá thừa. Vì khi thừa đạm, cây phát triển mạnh, dễ đổ ngã, ra hoa chậm, ít hạt, hạt lép nhiều, quả dễ rụng, nhiều sâu bệnh, phẩm chất quả giảm. – Bón phân đạm cần kết hợp với làm cỏ, xới đất, sục bùn (đối với lúa). 2-Phân lân. * Phân apatit: Là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc màu xám nâu. Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi nhiều. Thường người ta chia thành 3 loại: loại apatit giàu có trên 38% lân; loại phân apatit trung bình có 17 – 38% lân; loại phân apatit nghèo có dưới 17% lân. Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế biến thành các loại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới được đem nghiền thành bột để bón cho cây. Phần lớn lân trong phân apatit ở dưới dạng cây khó sử dụng. Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất. Phân này được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa. Sử dụng và bảo quản phân này tương đối dễ dàng vì phân ít hút ẩm và ít biến chất. * Super lân: Là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc. Một số trường hợp super lân được sản xuất dưới dạng viên. Trong super lân có 16 – 20% lân nguyên chất. Ngoài ra, trong phân này có chứa một lượng lớn thạch cao. Trong phân còn chứa một lượng khá lớn axit, vì vậy phân có phản ứng chua. Phân dễ hoà tan trong nước cho nên cây dễ sử dụng. Phân thường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi. Super lân có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được. Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất trung tính, đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên bón vôi khử chua trước khi bón super lân. Super lân có thể dùng để ủ với phân chuồng. Nếu super lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi sử dụng. Có thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua nhiều dùng 15 – 20% apatit để trung hoà, đất chua ít dùng 10 – 15%. Nếu dùng tro bếp để trung hoà độ chua của super lân thì dùng 10 – 15%, nếu dùng vôi thì tỷ lệ là 5 – 10%. Phân super lân thường phát huy hiệu quả nhanh, cho nên để tăng hiệu lực của phân, người ta thường bón tập trung, bón theo hốc, hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây. Phân này có thể dùng để hồ phân rễ mạ. Super lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ không cẩn thận phân có thể bị nhão và vón thành từng cục. Phân có tính axit nên dễ làm hỏng bao bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt. * Tecmô phôtphat (phân lân nung chảy, lân Văn Điển): Phân có dạng bột màu xanh nhạt, gần như màu tro, có óng ánh. Tỷ lệ lân nguyên chất trong tecmô phôtphat là 15 – 20%. Ngoài ra trong phân còn có canxi 30% một ít thành phần kiềm, chủ yếu là magiê 12 – 13%, có khi có cả kali. Tecmô phôtphat có phản ứng kiềm, cho nên không nên trộn lẫn với phân đạm vì dễ làm cho đạm bị mất. Phân này không tan trong nước, nhưng tan được trong axit yếu. Cây sử dụng dễ dàng. Phân có thể sử dụng để bón lót hoặc bón thúc đều tốt. Tecmô phôtphat phát huy hiệu lực tốt ở các vùng đất chua, vì phân có phản ứng kiềm. Phân sử dụng có hiệu quả trên các vùng đất cát nghèo, đất bạc màu vì phân chứa nhiều vôi, có các nguyên tố vi lượng và một ít kali. Phân này thường được bón rải, ít khi bón tập trung và ít được sản xuất dưới dạng viên. Không sử dụng tecmô phôtphat để hồ phần rễ mạ. Tecmô phôtphat ít hút ẩm, luôn ở trong trạng thái tơi rời và không làm hỏng dụng cụ đong đựng. 3. Phân Kali Để sử dụng hợp lý phân kali cần chú ý đến những điều sau đây: – Bón kali ở các loại đất trung tính dễ làm cho đất trở nên chua. Vì vậy ở các loại đất trung tính nên kịp thời bón thêm vôi. – Kali nên bón kết hợp với các loại phân khác. – Kali có thể bón thúc bằng cách phun dung dịch lên lá vào các thời gian cây kết hoa, làm củ, tạo sợi. – Có thể bón tro bếp để thay thế phân kali. – Bón quá nhiều kali có thể gây tác động xấu lên rễ cây, làm cây teo rễ. Nếu bón quá thừa phân kali trong nhiều năm, có thể làm cho mất cân đối với natri, magiê. Khi xảy ra trường hợp này cần bón bổ sung các nguyên tố vi lượng magiê, natri. Các loại cây có phản ứng tích cực với phân kali là: chè, mía, thuốc lá, dừa, chuối, khoai, sắn, bông, đay, v.v.. * Phân clorua kali: Phân có dạng bột màu hồng như muối ớt. Nông dân ở một số nơi gọi là phân muối ớt. Cũng có dạng clorua kali có màu xám đục hoặc xám trắng. Phân được kết tinh thành hạt nhỏ. Hàm lượng kali nguyên chất trong phân là 50 – 60%. Ngoài ra trong phân còn có một ít muối ăn (NaCl). Clorua kali là loại phân chua sinh lý. Phân này khi để khô có độ rời tốt, dễ bón. Nhưng nếu để ẩm phân kết dính lại với nhau khó sử dụng. Hiện nay, phân clorua kali được sản xuất với khối lượng lớn trên thế giới và chiếm đến 93% tổng lượng phân kali. Clorua kali có thể dùng để bón cho nhiều loại cây trên nhiều loại đất khác nhau. Có thể dùng phân này để bón lót hoặc bón thúc. Bón thúc lúc cây sắp ra hoa làm cho cây cứng cáp, tăng phẩm chất nông sản. Clorua kali rất thích hợp với cây dừa vì dừa là cây ưa Clo. Không nên dùng phân này để bón vào đất mặn, là loại đất có nhiều Clo, và không bón cho thuốc lá là loại cây không ưa Clo. Phân này cũng không nên dùng bón cho một số loài cây hương liệu, chè, cà phê, vì phân ảnh hưởng đến phẩm chất nông sản. * Phân sunphat Kali: Phân có dạng tinh thể nhỏ, mịn, màu trắng. Phân dễ tan trong nước, ít hút ẩm nên ít vón cục. Hàm lượng Kali nguyên chất trong sunphat Kali là 45 – 50%. Ngoài ra trong phân còn chứa lưu huỳnh 18%. Phân này có thể sử dụng thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Sử dụng có hiệu quả cao đối với cây có dầu, rau cải, thuốc lá, chè, cà phê. Sunphat Kali là loại phân chua sinh lý. Sử dụng lâu trên một chân đất có thể làm tăng độ chua của đất. Không dùng sunphat kali liên tục nhiều năm trên các loại đất chua, vì phân có thể làm tăng thêm độ chua của đất. II. Phân tổng hợp và phân hỗn hợp Phân tổng hợp là các loại phân đã được sản xuất thông qua các phản ứng hoá học để tạo thành một thể phân bón gồm nhiều nguyên tố dinh dưỡng. Phân này còn được gọi là phân phức hợp. Phân hỗn hợp là các loại phân tạo được do quá trình trộn lẫn 2 hoặc nhiều loại phân đơn với nhau một cách cơ giới và đều đặn. Phân tổng hợp cũng như Phân hỗn hợp có các tỷ lệ NPK ở các tổ hợp khác nhau được lựa chọn phù hợp với từng loại đất và từng nhóm cây trồng. Nhiều trường hợp trong phân tổng hợp cũng như phân hỗn hợp còn có thêm cả các nguyên tố Mg, Ca, S và các nguyên tố vi lượng khác. Trên thị trường hiện đang có các loại phân sau đây: – Loại 2 yếu tố N và P với tỷ lệ NPK: 18:46:0 và 20:20:0. – Loại 3 yếu tố NPK với tỷ lệ: 20:20:15, 16-16-8, 15-15-15, 16-8-16.. – Loại 4 yếu tố N, P, K, Mg; N, P, K, S với tỷ lệ: 14:9:21:2; 12:12:17:2; v.v.. Các loại phân tổng hợp và hỗn hợp chỉ phát huy hiệu lực tốt khi được bón đúng với yêu cầu của cây và phù hợp với tính chất của các loại đất. Vì vậy, muốn sử dụng có hiệu quả các loại phân này cần nắm được đầy đủ và cụ thể đặc điểm của cây và tính chất của đất. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khoa học, hiện nay các xí nghiệp phân bón đã sản xuất ra các loại phân tổng hợp và phân hỗn hợp chuyên dùng cho từng loại cây cụ thể, như phân bón cho cao su, cho cà phê, cho chè, cho rau, cho đậu, v.v.. * Phân NP: Loại phân 2 yếu tố này trên thị trường có nhiều thương hiệu khác nhau. * Phân diamophos (DAP): Phân có tỷ lệ các chất dinh dưỡng (N, P, K) là: 1:2,6:0. Phân này được sản xuất bằng cách trộn super lân kép với sunphat amôn. Phân có thành phần P2O5 – 46%, N – 18%. Phân có hàm lượng lân cao, cho nên sử dụng thích hợp cho các vùng đất phèn, đất bazan. Diamophos có thể sử dụng để bón cho nhiều loại cây trồng khác nhau. Phân có thể sử dụng để bón lót hoặc bón thúc. Phân DAP có đạm, lân dễ tiêu, không làm chua đất. * Phân hỗn hợp: 20:20:0; 23:23:0; 10:10:0 được sản xuất ra chuyên sử dụng để bón lót vào đất. * Phân NK: * Phân Kali nitrat: Dạng phân 2 yếu tố chứa 13% N và 45% K2O. Phân này được dùng để bón cho đất nghèo Kali. Thường được dùng để bón cho cây ăn quả, cây lấy củ. * Phân hỗn hợp: 30:0:10; 20:0:20; 20:0:10. Các dạng phân này có chưa NK và một số nguyên tố trung lượng. Trong các dạng phân này không có lân. Các dạng phân này được dùng để bón vào cuối thời kỳ sinh trưởng của cây trồng, vì vào thời kỳ này cây không còn yêu cầu đối với lân. * Phân PK: * Phân PK 0:1:3 . Người ta sản xuất phân này bằng cách trộn 55% super lân với 45% KCl. Phân được dùng để bón cho đất quá nghèo Kali như đất bạc màu, đất cát nhẹ v.v.. Phân cũng được dùng chủ yếu để bón cho các loại cây cần nhiều kali như khoai tây, khoai lang, v.v.. * Phân PK 0:1:2 . Được sản xuất bằng cách trộn 65% super phôtphat với 35% KCl. * Phân PK 0:1:2 chứa 5,8% P2O5 và 11,75% KCl. Phân này được dùng để bón cho các loại đất nghèo Kali và dùng chủ yếu để bón cho các loại ngũ cốc. * Phân N, P, K: – Phân amsuka : Có tỷ lệ NPK là 1: 0,4:0,8. Phân này được sản xuất bằng cách trộn amôn với super lân đã trung hòa vào muối KCl. Phân được dùng để bón cho cây có yêu cầu NPK trung bình, bón ở các loại đất có NPK trung bình. – Phân Nitro phoska: có 2 loại Loại có tỷ lệ NPK: 1:0,4:1,3 Được sản xuất bằng cách trộn các muối nitrat với axit phosphoric. Trong phân có chứa: N – 13%; P2O5 – 5,7%; K2O – 17,4%. Phân này được dùng để bón cho đất thiếu K nghiêm trọng và thường được dùng để bón cho cây lấy củ. Được sản xuất bằng cách trộn các muối nitrat với axit sunphuric. Trong phân có chứa: N – 13,6%; P2O5 – 3,9%; K2O – 12,4%. Phân được dùng để bón cho nhiều loại cây trồng và thường bón cho đất có NPK trung bình. – Phân Amphoska:Có tỷ lệ NPK: 1:0,1:0,8 Trong phân có chứa N – 17%; P2O5 – 7,4%; K2O – 14,1%. Phân này được dùng để bón cho đất trung tính và thường dùng để bón cho cây lấy củ. Tuỳ theo yêu cầu của cây và đặc tính của đất, người nông dân có thể mua loại phân thích hợp để bón. – Phân tổng hợp NPK: * Những điều cần lưu ý khi trộn phân: Có những loại phân trộn được với nhau và khi bón cho cây các nguyên tố dinh dưỡng trong hỗn hợp đều phát huy được tác dụng tốt. Tuy vậy, có những loại phân không trộn lẫn với nhau được, bởi vì khi trộn, loại phân này có thể làm mất hoặc giảm các nguyên tố dinh dưỡng có ở trong loại phân kia, hoặc tạo thành các chất có hại cho cây, làm xấu đất. III. Vôi 1. Vai trò tác dụng của vôi: Cung cấp Canxi (Ca) cho cây trồng, Ca là một nguyên tố dinh dưỡng rất cần cho cây vì Ca chiếm tới 30% trong số các chất khoáng của cây. Cải tạo đất chua, mặn. Tạo điều kiện cho vi sinh vật hoạt động tốt, phân giải các chất hữu cơ trong đất, tăng độ hòa tan các chất dinh dưỡng và tăng khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng của cây, diệt được một số bệnh hại cây trồng, khử độc cho đất do thừa nhôm(Al), Sắt(Fe), H2S… 2. Một số dạng vôi bón cho cây * Vôi nghiền: Các loại: đá vôi, vỏ ốc, vỏ sò… nghiền nát. Có tác dụng chậm nên bón lót lúc làm đất, thường bón từ 1-3 tấn/ha. Đất sét bón 1 lần với lượng lớn, sau vài năm bón lại. Đất cát bón hàng năm lượng ít hơn. Khi bón vôi nên kết hợp với phân hữu cơ để tăng hiệu quả của phân , không bón cùng đạm vì sẽ làm mất phân đạm. * Vôi nung (vôi càn long): Do nung CaCO3 thành CaO, rồi sử dụng. Tác dụng nhanh hơn vôi nghiền, dùng xử lý đất và phòng trừ sâu bệnh. Tuy nhiên do có hoạt tính mạnh khi sử dụng nên lưu ý để tránh ảnh hưởng tới cây trồng. * Thạch cao: Là dạng vôi đặc biệt, tác dụng nhanh, sử dụng rất tốt cho cây khi tạo trái Cách Tính Công Thức Phân Pha Trộn. Hiện nay, nhiều nơi sản xuất rất nhiều loại phân hỗn hợp với nhiều tỷ lệ NPK khác nhau nên bà con nông dân tùy giá cả từng lúc và khả năng thanh toán có thể tự chọn lựa để mua, tuy nhiên nếu muốn pha trộn để sử dụng hợp lý thì ta có thể thực hiện được. * Cách tính từ phân đơn ra phân hỗn hợp Ví dụ: Muốn pha trộn một loại phân có công thức là 5-10-10 từ phân SA, Super Lân và KCl thì ta pha như sau: – SA có 21%N, cần cung cấp 5kg thì ta phải có lượng SA là: 5 x 100 = 23. 8kg – Super Lân có 20% P2O5, muốn có 10kg P2O5 thì lượng Super Lân sẽ là: 10 x 100 =50 kg – KCl có 60% K2O, muốn có 10 kg K2O thì lượng KCl sẽ là: 10 x 100 = 16, 6 kg * Tổng số phân các loại là 23,8 + 50 + 16, 6 = 90, 4kg còn lại 9, 6 kg phải dùng chất độn (đất, cát hoặc thạch cao), trộn vô cho đủ 100kg. * Cách tính từ phân hỗn hợp ra phân đơn Ví dụ: Theo khuyến cáo cần dùng 100kg Urê, 200kg Super Lân, 50kg Clorua Kali để bón cho cây, nhưng nhà vườn đã bón 100kg NPK (20-20-15), như vậy lượng NPK thừa hay thiếu, cách tính như sau: – Lượng Urê có trong 100kg NPK 20-20-15 100 x 20 = 43kg – Lượng Super Lân có trong 100kg NPK 20-20-15 100 x 20 = 100kg – Lượng Clorua Kali có trong 100kg NPK 20-20-15 100 x 15 = 25Kg * Vậy phải thêm 57kg Urê + 100kg Super Lân + 25kg Clorua Kali thì mới đủ lượng phân như đã khuyến cáo. IV. Phân Bón Lá 1. Đặc điểm: Phân bón lá là các hợp chất dinh dưỡng hòa tan trong nước được phun lên lá để cây hấp thụ. 2. Lưu ý khi sử dụng phân bón lá: Bón qua lá tốt nhất khi bón bổ sung hoặc bón thúc nhằm đáp ứng nhanh yêu cầu dinh dưỡng của cây, hòa loãng phân theo đúng tỷ lệ trên bao bì; nhiệt độ quá cao, đất bị khô hạn nặng không nên dùng phân bón lá vì dễ làm rụng lá. Không sử dụng phân bón lá lúc cây đang ra hoa, lúc trời nắng vì sẽ làm rụng hoa trái và làm giảm hiệu lực phân. Không nên nhầm lẫn giữa phân bón lá và chất kích thích sinh trưởng, nếu trong phân bón lá có chất kích thích sinh trưởng thì trong phân này đã có chất dinh dưỡng, nếu chỉ dùng kích thích sinh trưởng thì phải bổ sung thêm dinh dưỡng để cây tăng trưởng tương ứng với sự kích thích đó. Phân bón lá ECO Hiện trên thị trường đây là các loại phân bón được Sacotec liệt kê trên đây được coi là thông dụng nhất, hiện nay xu hướng nông nghiệp đang dịch chuyển dần sang hữu cơ do những ưu điểm của các loại phân vi sinh được sản xuất theo công nghệ hiện đại của Mỹ, Nhật cùng những tác hại mà các loại phân vô cơ để lại cho đất, các loại phân hữu cơ vi sinh đang ngày càng được sử dụng rộng rãi và Sacotec là 1 trong những đơn vị đang phân phối rộng rãi các loại phân này.


Hoa trang là loài hoa khá phổ biến ở nước ta, hầu như đa số mọi người đều biết, cây ra hoa quanh năm và hầu như có sức sống khá khỏe, dễ thích nghi với tất cả các loại đất trồng. Tuy nhiên có một vài điều lưu ý khi ép chậu đối với hoa trang mà chúng ta cần để ý là không như các loài cây khác, khi tách rễ và cắt cành là hai việc làm cùng một lúc thì cây vẫn có thể phát triển lại bình thường sau một khoảng thời gian chăm sóc. Hoa trang thì ngược lại khi đã đụng tới rễ thì không đụng tới nhánh lá và ngược lại khi đã cắt nhánh, lá thì tuyệt đối không được cắt tỉa rễ, vì như vậy sẽ cây rất dễ suy kiệt và chết đi. Đây là đặc điểm khác biệt khá quan trọng giữa hoa trang và các loài cây khác mà chúng ta cần lưu ý.
Hy vọng bài viết mang lại một ít lợ ích cho các bạn đam mê cây cảnh. Rất mong nhận thêm các góp ý từ các bạn để group ngày càng phong phú. Xin chân thành cảm ơn.


Sau đây là những điểm mọi người cần chú ý khi chăm sóc để cây của mình luôn khỏe và phát triển tốt:1/ Đất: Đất trồng đa số các loại cây đều phải tơi xốp, thoát nước tốt để rể cây dễ dàng hô hấp và đâm rễ mới, đất trồng phù hợp cho đa số các loại cây là tro trấu + xơ dừa + cát, đất bình thường (than tổ ong đập nhỏ) trộn lẫn với nhau.2/ Nước: Với những cây đang khỏe mạnh thì chỉ cần tưới một ngày một lần nếu để nơi anh sáng mạnh, nếu để cây trong bóng râm thì chỉ cần tưới khi thấy gốc khô. Nhưng khuyến cáo đối với cây đang sinh trưởng bình thường thì nên để cây ở nơi có nhiều nắng để cây quang hợp liên tục cây sẽ sinh trưởng rất nhanh, còn đối với các cây còn yếu (mới chiết cành, bóc tách rễ, thay chậu,...) thì nên để nơi có bóng râm, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng từ 9h đến 15h. Chú ý tưới luôn thân và lá cây vì những bộ phần này cũng hấp thụ chất dinh dưỡng nuôi cây. 3/ Phân bón: Gồm bón gốc và bón thân, lá: + Bón gốc: chỉ cần bón mỗi tháng một lần, và lượng cũng vừa đủ, cây khỏe thì chỉ cần bón cá loại phân dưỡng hữu cơ bình thường hoặc phân bò, dê, ngựa... đều được. Nếu lười các bạn có thể mua phân hữu cơ dạng viên nén (loại cho lan), các bạn bỏ một túi vào gốc và chăm tưới bình thường, sau khoảng 3 tháng thì thay 1 lần.+ Bón thân, lá: Nửa tháng một lần, pha loãng phân hữu cơ với nước theo một lượng nhất định rồi tưới lên thân và lá sẽ giúp cây sinh trưởng nhanh hơn.Trên đây là tất cả kinh nghiệm của mình về chăm sóc cây xin được chia sẻ với các bạn. Nếu các bạn có ý kiến gì hay xin góp ý để mình được học hỏi thêm. Mình xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn.

[tintuc]
Tổng hợp từ các hệ thống bán lẻ và nhà mạng, trong ngày đầu tiên (6/11) bán sản phẩm iPhone 6s và 6s Plus chính hãng, ít nhất đã có gần 8.000 chiếc được giao cho khách hàng.

Đây được xem là con số kỷ lục trong số tất cả các phiên bản iPhone chính hãng được bán ra trong ngày đầu tiên tại thị trường Việt.
Ông Huỳnh Văn Tốt, phụ trách chương trình bán hàng trả trước của Thế Giới Di Động cho biết, trong một tuần mở đặt mua hàng trước (pre-order), từ ngày 30/10 - 5/11/2015, hệ thống này đã nhận được hơn 3.000 đơn đặt hàng, trong đó có hơn 2.400 khách hàng đã đặt cọc để mua sản phẩm. 
Ngày đầu tiên bán ra sản phẩm (6/11), hệ thống thuộc Thế Giới Di Động trên toàn quốc đã giao được xấp xỉ 2.400 máy iPhone 6s và iPhone 6s Plus đến tay người dùng.
Tại hệ thống bán lẻ FPT Shop và F.Studio by FPT cũng trong thời gian 7 ngày cho đặt hàng trước, từ 30/10 - 5/11, đã nhận được khoảng 5.500 đơn đặt hàng, trong đó đơn đặt cọc tiền là hơn 3.100. 

240 cửa hàng của FPT Shop trong ngày mở bán iPhone 6s, 6s Plus chính cũng đã giao được 2.200 máy tới khách hàng.

Tại hai hệ thống lớn nhất nước trên, phiên bản màu hồng và mẫu iPhone 6s bản 16GB là được bán nhiều nhất, chiếm tới gần 50% trong tổng doanh số bán ra.
Một “đại gia” bán lẻ sản phẩm công nghệ khác là Viễn Thông A cũng đã bán được 1.883 máy, trong đó có 1.368 máy là nhận đặt cọc trước. 
Tương tự, với các nhà mạng bán iPhone chính hãng tại Việt Nam là Viettel và VNPT VinaPhone, trong khi Viettel chưa tiết lộ số iPhone 6s, 6s Plus bán ra, thì VNPT VinaPhone cho biết cũng có doanh số khả quan với số lượng gần 800 máy được bán ra tại các điểm bán iPhone của VNPT VinaPhone trên toàn quốc. 
Các hệ thống bán lẻ với quy mô nhỏ hơn như CellPhoneS, Hoàng Hà, Nhật Cường…, tổng cộng với khoảng hơn chục hệ thống, ước tính trung bình mỗi hệ thống cũng bán được từ 40 - 70 máy. Theo đại diện một số hệ thống, cộng gộp lại, các hệ thống bản lẻ quy mô nhỏ, ít nhất cũng bán được trên dưới 600 bộ sản phẩm của Apple trong ngày đầu tiên.
Như vậy, với số liệu từ các hãng, các hệ thống bán lẻ và nhà mạng có thống kê và nếu số liệu này hoàn toàn chính xác thì tổng cộng ngày đầu bán sản phẩm iPhone 6s và 6s Plus chính hãng, người tiêu dùng Việt đã tiêu thụ ít nhất gần 8.000 máy.
Và nếu thống kê đầy đủ từ tất cả các hệ thống lớn nhỏ, các điểm bán lẻ và nhà mạng bán iPhone 6 và 6s Plus chính hãng (cộng thêm Viettel) thì số lượng iPhone 6s và 6s Plus bán ra có thể sẽ còn cao hơn.
Theo ông Huỳnh Văn Tốt, các chương trình đặt hàng ở các thế hệ iPhone trước chỉ dừng lại ở con số 1.000 - gần 1.500, rất ít khi vượt quá 2.000 như hai sản phẩm mới nhất của Apple. Số lượng đặt hàng và đặt cọc lần này không chỉ phá vỡ kỷ lục đơn hàng đặt mua mà còn phá vỡ kỷ lục doanh số từ trước đến nay tại hệ thống của Thế Giới Di Động.
Lý giải số lượng iPhone được bán kỷ lục như trên, bà Nguyễn Bạch Điệp, Tổng giám đốc hệ thống FPT Shop cho rằng, do việc nhập khẩu trực tiếp từ Apple nên các nhà bán lẻ đã chủ động nguồn hàng hơn so với trước đây và giúp người dùng tiếp cận về sản phẩm sớm và nhanh hơn.
Dù vậy, số lượng trên là do còn được cộng dồn từ các đơn đặt hàng trước đó một tuần, vì vậy mới đạt được con số kỷ lục trong ngày bán đầu tiên như vậy.


[/tintuc]

Follow us on FaceBook